🌖 Điểm Mới Của Luật Tố Tụng Hành Chính 2015

Một số điểm mới của luật tố tụng hành chính 2015 - Về thẩm quyền của Tòa án Ngoài việc kế thừa các quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2010 về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bổ sung đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là danh sách cử tri trưng cầu ý dân để bảo đảm phù hợp với Luật trưng cầu ý dân năm 2015. (Mặt trận) - Năm 2022, công tác thi hành án đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án kinh tế, tham nhũng tăng cao là kết quả nổi bật so với các năm trước. Đánh giá nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của kết quả này, tại Phiên họp vừa qua của Ủy Điều 1. Áp dụng pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng hành chính để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính: 1. Kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành (ngày 01-7-2016) Những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 1.1. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng 1.2. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24) 1.3. Về sự tham gia của Viện kiểm sát 1.4. Về thẩm quyền của Tòa án (Chương III từ Điều 26 đến Diều 42) 1.5. YtWD. Vướng mắc luật tố tụng hành chính 2015 được nhiều người quan tâm. Có thể nói, luật tố tụng hành chính 2015 ra đời có nhiều điểm mới, thay đổi quan trọng và khắc phục được nhiều điểm còn hạn chế ở Luật cũ. Tuy nhiên, luật này khi áp dụng thực tiễn vẫn còn tồn tại một số vướng mắc nhất định gây ra khó khăn trong quá trình xét xử. Trong bài viết này, Luật ACC sẽ liệt kê một số vướng mắc, bất cập của Luật tố tụng hành chính 2015 để bạn đọc nắm rõ hơn. 1. Vướng mắc về việc xác định người bị kiện trong vụ án hành chínhKhoản 4 Điều 32 Luật TTHC năm 2015 quy định trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh“Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án”.Tuy nhiên nếu trong trường hợp đương sự khởi kiện cả quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện vừa kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong cùng một vụ án thì người bị kiện trong trường hợp này được xác định như thế nào?2. Vướng mắc về thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnhKhoản 8 Điều 32 Luật TTHC năm 2015 quy định“Trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật này”.Ở đây, không có quy định cụ thể những loại việc nào Toà án cấp tỉnh được lấy lên để giải Vướng mắc về thụ lý vụ án trong trường hợp người khởi kiện gửi đơn thông qua cổng thông tin điện tửTheo quy định tại khoản 3 Điều 119 Luật TTHC thì người khởi kiện có thể nộp đơn khởi kiện đến tòa án bằng phương thức gửi trực tuyến thông qua cổng thông tin điện tử của tòa án. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 118 lại quy định “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung theo yêu cầu của tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”. Mâu thuẫn ở chỗ căn cứ thụ lý vụ án thì tòa án phải dựa vào nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, mà các tài liệu, chứng cứ đương sự nộp cho tòa án phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực. Như vậy, trong trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện thông qua cổng thông tin điện tử thì việc thụ lý sẽ được thực hiện như thế nào? Vì thông qua cổng thông tin điện tử thì các tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện cung cấp sẽ không đảm bảo theo quy định tại Điều 82 Luật TTHC, đó là nguyên tắc xác định chứng cứ.4. Vướng mắc về việc xem xét, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện Khoản 1 Điều 124 Luật TTHC năm 2015 quy định“Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”.Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào thông báo trả lại đơn khởi kiện mà không có đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo thì rất khó để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát cũng chỉ có thể kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát, trường hợp Tòa án không gửi thông báo thì Viện kiểm sát không thể thực hiện chức năng kiểm sát vì Luật TTHC năm 2015 không có điều khoản nào quy định Viện kiểm sát được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về việc xem xét và thụ lý đơn khởi kiện, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của người khởi là vướng mắc mà trong quá trình thi hành Luật TTHC năm 2010 đã gặp phải dẫn đến hiệu quả kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án chưa cao, đến khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thì vẫn đề này vẫn chưa được sửa đổi. Về trình tự, thủ tục phiên họp được tiến hành như thế nào; chứng cứ, tài liệu có được chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trước khi đưa ra phiên họp hay không?…5. Vướng mắc về thời hạn chuẩn bị xét xửTheo quy định tại điểm a, b khoản 2, 3 Luật TTHC năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện“2 Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau a 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; b30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 3 Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau a 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; b 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC cũng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử “1 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này; 2 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này.”Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC năm 2015 chỉ quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 116, còn các trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 3 Điều 116 lại không có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, do đó khi thụ lý giải quyết đối với những trường hợp này thì Tòa án áp dụng thời gian chuẩn bị xét xử là 02 tháng, có nơi thì áp dụng 04 tháng dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống Vướng mắc về người đại diệnTheo quy định tại khoản 3, 5, 7 Điều 60 Luật tố tụng hành chính 2015 thì“ 3Người đại diện theo ủy quyền trong TTHC phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng; Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia TTHC thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia TTHC; Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này…; 5 Người đại diện theo pháp luật trong TTHC thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTHC của đương sự mà mình là đại diện; Người đại diện theo ủy quyền trong TTHC thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTHC của người ủy quyền, người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba; 7 Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người đại diện trong TTHC trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật”.Như vậy, kể từ ngày 01/4/2016 thì việc cử người đại diện trong TTHC trước Tòa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Khi tham gia TTHC, UBND thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật. UBND có quyền tự bảo vệ, nhờ Luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình khoản 11 Điều 55, khi nhờ Luật sư thì Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND theo quy định tại Điều 61 Luật TTHC chứ không phải là người đại diện, nhưng thực tế có rất nhiều vụ án tại các địa phương đã được tòa án đưa ra giải quyết thì người bị kiện ủy quyền toàn bộ cho Luật sư thực hiện, lúc này Luật sư sẽ giữ hai vai vừa là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị kiện, vừa là người được ủy quyền, đây chính là điểm bất cập của đó, Chánh án TAND tối cao đã có văn bản hướng dẫn yêu cầu thực hiện nghiêm túc Điều 60 Luật TTHC và đã có văn bản hướng dẫn thi hành điểm c khoản 2 Điều 61 Luật TTHC đó là các bộ, công chức được tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch UBND tỉnh, thành đây, Công ty Luật ACC – Đồng hành pháp lý cùng bạn đã liệt kê một số vướng mắc luật tố tụng hành chính 2015. Đối với sự tin cậy của khách hàng, Luật ACC sẽ luôn cố gắng hơn nữa để khách hàng có được sự hài lòng nhất. Nếu có thắc mắc gì thêm về các vấn đề liên quan hay những vấn đề khác quý khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi. Công ty Luật ACC luôn sẵn sàng hỗ trợ quý khách hàng! ✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc ✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn ✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật ✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác ✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin Về thụ lý vụ án và thời hiệu khởi kiệnĐiều 123 Luật TTHC năm 2015 quy định về các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì lý do hết thời hiệu khởi kiện không thuộc các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, qua thực hiện thấy có một số bất cập vì trong thực tế có những vụ kiện chỉ qua đơn khởi kiện và một số tài liệu người khởi kiện cung cấp ban đầu đã xác định được không còn thời hiệu khởi kiện. Nếu theo quy định trên, Tòa án thụ lý vụ án sau đó mới ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dẫn đến hậu quả khi đã thụ lý vụ án sẽ phát sinh thêm nhiều thủ tục không cần thiết, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ dụ Trong thời điểm từ ngày 01/12/2019 đến ngày 30/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã thụ lý 92 vụ án hành chính có cùng đối tượng khởi kiện là Quyết định thu hồi đất năm 2002 của UBND tỉnh TB về việc thu hồi đất của 113 hộ dân huyện TH; Quyết định cho thuê đất năm 2003 của UBND tỉnh TB; Tuyên bố hành vi thu hồi đất của UBND huyện TH là trái pháp trình nghiên cứu, giải quyết các vụ án nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy như sauNgày 25/7/2017, các ông H, M, B, Q đại diện cho các hộ dân có đất bị thu hồi cùng kí đơn khởi kiện, nhưng không cung cấp được văn bản ủy quyền của các hộ dân này. Các hộ dân cho rằng đã khiếu nại liên tục nhưng không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa. Nhưng theo quy định tại Điều 9, và khoản 2 Điều 33 Luật Khiếu nại năm 2011, đến ngày 25/9/2017 mới làm đơn khởi kiện là đã hết thời hiệu khởi đó, Tòa án nhân dân tỉnh TB ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chínhQuá trình giải quyết kháng cáo, kháng nghị ở giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm đã xử hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của TAND cấp sơ thẩm để thụ lý, giải quyết sơ thẩm lại nhiều vụ án có vi phạm này. Cụ thể là Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 quy định “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của HĐTP-TANDTC quy định “Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại Điểm a Khoản này là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của HĐTP-TANDTC sửa đổi, bổ sung điều khoản trên thành “Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này”.Căn cứ Điều 30 Luật TTHC năm 2015; tham khảo Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2010, cụ thể “Quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 28 của Luật Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó, bao gồma Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;b Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản nhiên, một số Cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh nhận thức quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, do đó quyết định đình chỉ xem xét yêu cầu khởi kiện của đương sự khi họ khởi kiện một quyết định hành chính ban hành để trả lời khiếu nại của đương sự còn thời hiệu khởi kiện có nội dung giữ nguyên nội dung quyết định hành chính bị khiếu nại trước đó đã hết thời hiệu khởi kiện.Ví dụ Ngày 19/10/2011, Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh N ban hành Quyết định số 774/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Dương Văn T, nội dung của quyết định“Điều 1 Bác nội dung trong đơn của ông Dương Văn T cho rằng mốc giới đất thổ cư của gia đình ông tại vị trí thửa số 64, tờ PL15 tiếp giáp với lưu không đường 12C, cách tim đường 15,5m theo quy định tại Quyết định 774/QĐ-UB ngày 27/5/1996 của UBND tỉnh N,.Điều 2 Giao Phòng Tài nguyên – Môi trường huyện phối hợp với UBND xã TY thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số seri AC 596708, cấp ngày 30/12/2008 cho ông Dương Văn T và bà Nguyễn Thị M, xã TY do quá trình kiểm tra, thẩm định không chặt chẽ dẫn đến việc công nhận quyền sử dụng đất trên tăng 80m2 đất so với diện tích đất hợp pháp được Nhà nước xử lý cho hộ ông Dương Văn 3 Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định này nếu không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại, ông T có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh N hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án”.Như vậy, Quyết định số 774/QĐ-UBND do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H ký, có nội dung quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính, được áp dụng đối với ông Dương Văn T và bà Nguyễn Thị M. Hậu quả của quyết định này làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của hộ gia đình ông Dương Văn T, bà Nguyễn Thị M, do đó là quyết định hành chính do cơ quan hành chính nhà nước ban hành trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước về lĩnh vực đất đai. Ông T, bà M có quyền khởi kiện Quyết định hành chính nêu trên theo thủ tục tố tụng hành chính quy định tại khoản 1 điều 115 Luật tố tụng hành chính năm TAND tỉnh N nhận định Quyết định số 774/QĐ-UBND là “Quyết định trả lời khiếu nại của Chủ tịch UBND không phải là Quyết định của UBND; Quyết định không làm phát sinh, thay đổi, hạn chế chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, nội dung tại Điều 2 mang tính chất chỉ đạo điều hành” để từ đó xác định Quyết định số 774/QĐ-UBND ngày 19/10/2011 không phải là đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 30 Luật TTHC năm 2015 và ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định tại Khoản 1, 2 Điều 3 Luật TTHC năm khi nhận được Quyết định số 774/QĐ-UBND ngày 19/10/2011 của UBND huyện H, tỉnh N, gia đình ông Dương Văn T có đơn khiếu nại việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia Báo cáo số 297/BC-UBND ngày 25/12/2017 của UBND huyện H về việc kiểm tra, rà soát nội dung đơn của ông T, có nội dung giữ nguyên Quyết định số 774/QĐ-UBND ngày 19/10/2011 của UBND huyện vậy, Báo cáo số 297/BC-UBND ngày 25/12/2017 của UBND huyện H là Văn bản giải quyết khiếu nại. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính của ông T được tính từ ngày 25/12/2017. Đến ngày 5/9/2018, ông T khởi kiện là đang trong hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật số kiến nghịBổ sung quy định về quyền của VKSND trong việc được quyền nhận văn bản trả lại đơn khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật TTHC phải kèm theo bản sao tài liệu đương sự gửi kèm đơn khởi kiện tới TAND;Bổ sung quy định về thủ tục, thời hạn thụ lý đối với TAND cấp có thẩm quyền thụ lý;Ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính và hướng dẫn xác định rõ các Quyết định hành chính, hành vi hành chính theo quy định Luật có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc ban hành các quyết định hành chính và cũng để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành quyết định hành chính, cần phải có Luật Ban hành quyết định hành chính. Hiện nay, Dự án Luật này đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Luật Ban hành quyết định hành chính được ban hành không chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý, mà còn tạo thuận lợi cho người dân, vừa bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, vừa bảo đảm tính quyền uy, quyền lực phục tùng, được xem là bản chất của các quan hệ hành chính. Theo đó, Luật phải làm rõ những gì được coi là quyết định hành chính cũng như thẩm quyền, căn cứ ban hành, các nguyên tắc về tính hợp pháp của nội dung và hình thức của quyết định hành chính. Đồng thời, với việc ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính, Chính phủ và TAND tối cao, VKSND tối cao cần phải hướng dẫn xác định rõ các Quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện làm cơ sở cho người dân đưa ra các yêu cầu và chính quyền, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại với người Theo Tạp chí Tòa ánĐây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info

điểm mới của luật tố tụng hành chính 2015