🐠 Nhân Hứng Cũng Vừa Toan Cất Bút
Cảm hứng nhân văn của NGuyễn Du thể hiện qua đoạn trích: Chị em Thúy Kiều. HOC24. Lớp học. Lớp học. Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Hỏi đáp Đề thi Video bài giảng
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nền trời xanh chấm phá một nét nhẹ, mềm của cành trúc: "Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nằm trong chùm thơ thu nức tiếng, là một trong những bài thơ xuất sắc của ông. Vẫn lấy cảm hứng từ mùa thu, vẻ thơ mộng như chốn tiên cảnh được khắc họa qua từng nét bút. Bức tranh mùa thu với màu sắc
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào". Bó gối nhìn cảnh vật, tâm sự, Nguyễn Khuyến cứ lại chìm dần. Nhận mà không cảm, động mà không rung, thức mà không tỉnh. Bỗng đàn chim lìa sứ để tránh rét bật lên tiếng kêu.
Đứng trước cảnh thu, cảm nhận hồn thu khiến cảm hứng làm thơ của thi sĩ bỗng dạt dào. Ông toan cất bút nhưng rồi lại ngập ngừng: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào." Nhà thơ thẹn với ông Đào, là thẹn điều gì?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào" Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu.
Cô vừa mới đi ra khỏi bệnh viện, đang chuẩn bị về nhà trọ chuẩn bị mấy bộ quần áo tới sân bay, thư ký Tề Bạch Nham của bố liền tới đón, lịch sự nói: "Tiểu thư, phu nhân nói tôi tới đón cô về nhà."
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa một bức tranh không gian thoáng đãng. Trên nền trời được chấm phá một nét mỏn, mềm của cành trúc: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Trước cảnh thu đẹp mà buồn man mác, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ nỗi lòng mình. Với Nguyễn Khuyến cũng như với các nhà thơ chân chính, thơ sẽ luôn gắn liền với nhân cách. Nhân cách lớn thì thơ lớn.
ZxVFiU. Thu vịnh February15 Trời thu xanh ngắt mấy tầng caoCần trúc lơ phơ gió hắt hiuNước biếc trông như tầng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vàoMấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bútNghĩ ra lại thẹn với ông Đào Ông Đào tức Đào Tiềm, một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Bình luận
Dưới đây là bài văn mẫu phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến trong chương trình Ngữ văn cấp 3. Các bạn hãy sử dụng tham khảo để bài làm văn của mình sâu sắc và sáng tạo nhé!Mở bàiChi tiết phần thân bàiLuận điểm 1 phân tích bài Thu điếuLuận điểm 2 phân tích bài Thu ẩmLuận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnhPhần kết bài chi tiếtMùa thu luôn là một trong những mùa tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn sáng tác nên những tác phẩm bất hủ. Mỗi tác giả đều có những góc nhìn khác nhau về mùa thu. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thú vị của mùa thu cũng như thấy được tài năng của tác giả. Mở bài Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng. Ông được biết đến là một vị quan có phẩm chất thanh cao và thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã có rất nhiêu gia thoại thú vị kể về sự gắn bó của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân. Không chỉ là một vị quan chính trực, hết lòng vì nhân dân, Nguyễn Khuyến còn là một người có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở và gắn bó với thiên nhiên, làng quê và quê hương đất nước. Quá trình phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn màu sắc thu ở đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu là những bức tranh thu đặc sắc, với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Chi tiết phần thân bài Luận điểm 1 phân tích bài Thu điếu Nhắc đến Nguyễn Khuyến độc giả sẽ nhớ ngay đến chùm thơ thu gồm 3 bài Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm. Mỗi bài thơ là một bức tranh thu với nét đẹp duyên dáng không giống nhau. Trước hết, các bạn hãy cùng phân tích và tìm hiểu về bài thơ Thu điếu. “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả ao thu. Chỉ miêu tả mặt ao thôi nhưng nhà thơ đã dùng khá nhiều từ để vẽ lên. Đó là “lạnh lẽo”, “trong veo”, “sóng biếc” và “gợn tí”. Có thể thấy, những từ này đều có điểm chung là sự thể hiện sự vắng lặng, cô độc và lạnh lẽo. Đúng vậy, mùa thu tới thường mang theo không khí lạnh, khiến thời tiết hơi se lạnh. Và dường như cái lạnh của thiên nhiên cũng khiến cho lòng người cảm thấy “lạnh lẽo” hiu quạnh. Ở đây, ao thu không còn mang dáng vẻ lãng mạn, dịu dàng nữa mà choáng ngợp bởi nỗi cô độc trong lòng người. Có lẽ chính vì thế mà tác giả đã gieo vần “eo” với một loạt các tính từ xuất hiện ở các câu như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo”, “khẽ đưa vèo”. Ở đây, để miêu tả vẻ hiu quạnh, mênh mang của bức tranh thu này, nhà thơ Nguyễn Khuyến còn sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh. Tác giả vẽ chiếc thuyền trôi lững lờ chậm chạm mà như không trôi, nhưng chiếc lá lại rơi xuống khẽ đưa vèo đã tạo nên sự cao trào về vẻ tĩnh lặng. Sau khi quan sát mặt nước, tác giả chuyển hướng nhìn lên không gian bầu trời và mặt đất. Và ở đâu cũng chỉ thấy một màu cô độc, hoang vắng “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Tác giả nhìn thấy bầu trời thu xanh ngắt là chỉ có tầng mây lửng lơ, nhẹ nhàng trôi. Điều đó, tạo cảm giác lạc lõng, không biết trôi về đâu, với mục đích gì. Tầng mây ấy giống như con người cô độc đang nhìn kia, cũng đang cảm thấy côn đơn, không tìm ra lối thoát. Đến những ngõ trúc thường có bạn sang chơi nhưng hôm nay cũng vắng teo người không một ai, kể cả người xa lạ. Quá chán chường với những khung cảnh hiện tại, tác giả lại quay về với thú vui câu cá của mình “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo” Ở nơi mặt ao vắng lặng, nước lại trong veo thì ắt hẳn câu cá không dễ. Chính vì thế mà tác giả mới bảo là câu lâu chẳng được. Nhưng ở đây nhà thơ đặc biệt đặt hình ảnh “tựa gối ôm cần”. Điều này nhằm nhấn mạnh tâm trạng của chính nhà thơ. Nhà thơ không ung dung ngồi câu cá mà trong lòng vẫn chứa đựng trắc ẩn. Dù đã về quê ở ẩn nhưng trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy bế tắc, buồn bã trước thời thế. Luận điểm 2 phân tích bài Thu ẩm “Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy. Độ năm ba chén đã say nhè”. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Thu ẩm”. Nếu như Thu điếu là mùa thu câu cá thì Thu ẩm là mùa thu uống rượu. Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu và tâm tư của nhà thơ. Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ xóm. Chúng mang dáng vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng tả cảm nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn là thi nhân nữa mà trở thành ông già đang khề khà chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó mà cảnh vật biến đổi đầy thú vị và bất ngờ “Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè. Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te có nghĩa là rất đơn sơ và lụp xụp, mái tranh cũng xác xơ và rách nát. “Đã thế, lại điểm thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, cô quạnh “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ như làn khói mỏng. Khiến cho khung cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt, hình ảnh ao thu ở đây không lạnh lẽo trong veo nữa mà là lóng lánh bóng trăng. Có nghĩa là bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến dạng, trông thật thú vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”. Ban đêm mà thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy mà cũng đỏ hoe. Thật kỳ lạ! Nhưng đó chính xác là diễn tả tâm trạng buồn bã chán chường, tìm đến rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế mà thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. Không phải say túy lúy mà chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ mà không bê tha, phá phách. Có thể thấy theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để có thể lè nhè đôi ba chén rượu. Luận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnh Thu vịnh còn được biết đến là tác phẩm mùa thu ngồi mát ngâm thơ. “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Có thể thấy, mở đầu bức tranh là hình ảnh bầu trời bát ngát bao la “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” Nếu như trong Thu điếu, bầu trời có từng lớp mây lửng lỡ trôi, thì bầu trời ở Thu vịnh đã trở nên xanh thăm thẳm, mấy từng cao. Tưởng chừng như rất cao, nhiều tầng tầng lớp lớp. Giữa bầu trời bao la ấy, nổi bật lên hình ảnh một chiếc cần trúc, tức là cây trúc non non với dáng đứng cong cong đang rung rinh, lơ phơ trước gió. Thật là một cảnh tượng vừa động vừa tĩnh đầy cuốn rũ và hấp dẫn của mùa thu. “Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào” Sau khi vẽ bức tranh thu qua những chấm phá trên bầu trời, nhà thơ tiếp tục vẽ dáng thu qua những nét dưới mặt đất. Đó là nước biếc của mặt ao lờ mờ như bị một tầng khói bao phủ. Nước biếc lúc này không còn có màu xanh thông thường nữa là lẫn vào màu khói trở nên huyền ảo và mông lung. Tiếp đến là hình ảnh song thưa. Song thưa là cái cửa sổ của căn nhà, khiến khung cảnh trở nên thật bình dị khi để ánh trăng lọt vào. Có thể thấy, cảnh vật ở bốn câu thơ này, được tác giả miêu tả ở các thời điểm khác nhau. Mỗi hình ảnh mang một vẻ đẹp không giống nhau nhưng tất cả đều chưa đựng tâm trạng nỗi lòng của thi nhân. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?” Nếu như những câu trên, nhà thơ miêu tả cảnh vật với cái nhìn khách quan thì ở đây, tác giả đã để lộ cảm xúc của bản thân. Tác giả nhìn hoa đang nở trước mắt mà lại cảm nhận thấy đó là hoa năm ngoái. Điều đó có nghĩa, tâm trạng lúc này của tác giả đang lùi về quá khứ. Để rồi bất chợ nghe thấy tiếng ngỗng nước nào. Tác giả không hiểu âm thanh ấy phát ra từ đâu, mặc dù đó là âm thanh rất quen thuộc mỗi độ thu về. “Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” Nhìn thấy cảnh thu đó, tác giả bỗng hứng muốn làm thơ, nhưng rồi chợt nhận ra tài thơ của mình đang kém. Ông cho rằng mình chưa đủ nhân cách và khí phashc như Đào Tiềm nên cảm thấy thẹn. Một lời thơ kết lấp lửng nhưng kín đáo, đã khiến cho bài thơ thêm chất suy tư, chiêm nghiệm. Phần kết bài chi tiết Qua việc phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của mùa thu. Mặc dù mỗi bức tranh thiên nhiên thu ấy là một vẻ khác nhau nhưng đều chất chứa những nỗi buồn mênh mang. Từ cảnh vật cho đến tâm trạng con người. Qua đó, chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên đất nước của nhà thơ. Mặc dù đã lui về ở ẩn, vui thú điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn đau đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm sự xót xa, tiếc nuối trước tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ cũng thấy rõ được tài năng thơ ca của tác giả. Chỉ những người có tâm hồn tinh tế mới có thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy.
Phân tích bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến lớp 11 Đọc bài thơ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. 1. Tổng Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. 2. Phân tích A, Đề Giới thiệu tổng quát cảnh mùa thu. Hình ảnh "Trời thu xanh ngắt.." Màu xanh quen thuộc của Nguyễn Khuyến khi tả mùa thu, "mấy tầng cao" Vẽ được cái cao vút, thăm thẳm của khung trời mùa thu. Hình ảnh "cần trúc lơ phơ" tạo nét động cho bức tranh thu. "Hắt hiu" Diễn tả được cái se lạnh của gió mùa thu. Cách giới thiệu rất khéo và rất đạt. B, Thực Cảnh trăng nước của mùa thu Màu sắc nước biếc hòa hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến. Cách so sánh "trông như tầng khói phủ" làm cho cảnh dịu nhẹ, mờ nhạt. Ta hình dung được mùa thu trong màu biếc lẫn với màu khói. Hình ảnh "Song thưa để mặc ánh trăng vào" quen thuộc mà vẫn nên thơ. Cách nói của Nguyễn Khuyến "để mặc" cho thấy cảnh của ông phóng khoáng, tâm hồn ông rộng mở. Cảnh đẹp, màu sắc dịu nhẹ. Cảnh cho thấy sự hòa nhập của con người với thiên nhiên. Ta có cảm tưởng Nguyễn Khuyển đang thả mình trong thiên nhiên với làn nước, với ánh trăng. C, Luận Cảnh hoa và tiếng chim ngỗng của mùa thu. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh "mấy chùm" hoa và "một tiếng" ngỗng. Hình ảnh "hoa năm ngoái" có sức gợi tả mạnh; "hoa năm ngoái" có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái gợi lên cho ta hiểu mà nước hôm nay thì đã trở thành "nước nào". Hình ảnh "hoa năm ngoái" làm ta nhớ cách dùng chữ của Nguyễn Du "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Nói tóm lại, hai câu luận cũng là tả về mùa thu, nhưng qua cảnh, ta thấy được tâm trạng của nhà thơ, thấy được sự thầm kín của một con người không thể dửng dưng trước cảnh mất nước. D, Kết. Cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ. "Nhân hứng" tức là cái hứng thú trước cảnh đẹp của mùa thu. "Toan cất bút" nghĩa là định làm thơ, cảnh thu đẹp và gợi hứng cho nhà thơ. "Nghĩ ra" tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Ông Đào tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi từ đời Tấn, đã "dũng thoái" treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, với hoa cũ được giữ cho được cái khí tiết của mình. Bằng điển tích này, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ "cái tôi" của mình trong cảnh sắc mùa thu một cách khá đậm nét. "Thẹn với" ông Đào "là một cách nói bộc lộ đưực tấm lòng thanh cao của nhà thơ, thể hiện được cái tự hào khiêm tốn của ông trước lương tâm của mình" Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu ". 3. Hợp. Bài" Thu Vịnh "tả tổng quát về mùa thu, chứ không nói một đặc cảnh" uống rượu "hay" câu cá ", nhưng ta vẫn thấy nét thu đặc biệt của Nguyễn Khuyến. Hơn nữa, trong cảnh sắc mùa thu này, ta thấy khá rõ được tâm hồn thanh cao và khí tiết của một người" Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết ". Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ - trích bài Mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến. Cảm hứng chủ đạo Thu vịnh có nghĩa là vịnh mùa thu, cũng có thể hiểu mùa thu làm thơ ngâm vịnh. Bài thơ nói lên những rung động của tâm hồn. Nguyễn Khuyến, trước cảnh đẹp mùa thu; ngập ngừng bày tỏ một nỗi niềm thầm kín trước thời cuộc. Phân tích 1. Đề Câu 1, tả vẻ đẹp trời thu nơi đồng quê Xanh ngắt, thăm thẳm" mấy từng cao ". Còn có cái bao la, mênh mông của bầu trời mà ta cảm nhân được. Câu 2 tả một nét thu hữu tình. Gió thu nhè nhẹ, lành lạnh" hắt hiu "gợi buồn, khẽ lay động những ngọn tre, ngọn măng trên lũy tre làng." Cần trúc lơ thơ "là một hình ảnh đầy chất thơ mang theo hồn quê man mác. 2. Thực Cảnh thu sáng sớm hay hoàng hôn, chập tối hay canh khuya? Mặt ao thu" nước biếc "bao phủ mơ màng một làn sương" như từng khói phủ ". Đêm đêm nhà thơ mở rộng cửa sổ song thưa để đón trăng thu. Hai chữ " để mặc " trong câu thơ" Song thưa để mặc bóng trăng vào "rất thần tình, gợi tả tâm hồn rộng mở và thanh cao của thi nhân. Nguyễn Khuyến thưởng trăng nào có khác gì Nguyễn Trãi 600 năm về trước" Hé cửa đêm chờ hương quế lọt "Hương quế Trăng. Phần thực tả trăng nước mùa thu mang vẻ đẹp êm đềm, thơ mộng. Nhà thơ như đang chan hòa, đang trang trải lòng mình với thiên nhiên. 3. Luận Lấy hoa để nhắc lại hoài niệm; lấy tiếng ngỗng không chỉ mượn động để tả tĩnh mà còn để gợi tả nỗi niềm cô đơn của mình." Hoa năm ngoái "như một chứng nhân buồn. Có khác gì Đỗ Phủ xưa" Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ "?" Ngỗng nước nào ", một câu hỏi nhiều bâng khuâng. Quê hương mình, đất nước mình.. nhưng hồn quê nay đã sầu tủi, hồn nước nay đã bơ vơ.. đã thành " nước nào " rồi. Tiếng chích chòe, tiếng cuốc kêu, tiếng ngỗng gọi đàn trong thơ Nguyễn Khuyến đầy ám ảnh. Lấy cái nhìn thấy đối với cái nghe thấy, lấythời gian đối với không gian, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong hồn ta cái chất thơ của tình thu quyện vào trong cảnh thu . Thu vịnh là như thế! 4. Kết Niềm hứng khởi và nỗi thẹn của nhà thơ. Ngập ngừng muốn cất bút làm thơ để vịnh thu, nhưng rồi lại thẹn . Thẹn với ai? Với danh sĩ Đào Tiềm đời nhà Tấn bên Trung Quốc ngày xưa. Thẹn về tài thơ hay thẹn về khí tiết? Lấy điển tích này diễn đạt bằng một so sánh, Nguyễn Khuyến khiêm tốn và kín đáo giãi bày tâm sự mình, khẳng định lương tâm một nhà nho quyết giữ vững khí tiết" Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu "Di chúc. Kết luận Có yêu mùa thu nhiều lắm mới tả, mới vịnh mùa thu hay như vậy. Một nét thu là một nét vẽ thoáng và nhẹ, thanh và trong, thực và mộng. Bầu trời và mặt nước, ngọn tre và làn gió thu, bóng trăng và màn sương khói, chùm hoa và tiếng ngỗng trời.. chứa đựng cả một hồn thu đồng quê xa xưa. Trong cái hồn thu ấy thoáng hiện tâm tình, tâm hồn thi nhân Thanh cao, giàu khí tiết, lặng lẽ và cô đơn. Cảnh thu, tình thu đẹp mà thoáng buồn, đầy chất thơ." Thu vịnh"là một bài thơ kiệt tác. Dàn ý khái quát I. DÀN Ý 1. Mở bài - Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam. - Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến. 2. Thân bài + Hai câu đề Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. - Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng. - Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu gió nhẹ càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu. + Hai câu thực Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. - Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu trong xanh. Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo. - Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn song thưa và cái vô hạn bóng trăng, do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa. - Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả. + Hai câu luận Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào. - Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? - Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất. + Hai câu kết Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. - Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lí trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc. - Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời. - Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc. 3. Kết bài - Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến - Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp. II. BÀI LÀM Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật thân quen của quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước. Trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh nghèo. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió hắt hiu là gió rất nhẹ và như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt.. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tính của cảnh thu. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ, thanh thoát nhưng hòa điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hòa. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó. Hai câu luận Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phủ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc có tầng khói phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà lẫn vào làn khói lam mờ, hỏa mông lung, huyền ảo. Đó là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời. Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ thì bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, mặc dù bị giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu.. nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mạch và chất chứa suy tư. Cảnh vật trong bốn câu thơ đầu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau. Nhìn thấy màu trời xanh ngắt, cần trúc lơ phơ là lúc đang trưa. Mặt nước biếc trông như tầng khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song thưa là lúc trời đã vào đêm.. Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối dây liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm tư tác giả. Ngòi bút cũng theo diễn biến tâm tư mà chọn ra nấy nét điển hình kia. Tuy khác nhau nhưng dường như các hình ảnh trên đều cùng gợi lên trạng thái lặng yên, ẩn giấu sự cảm thông, giao hòa giữa tâm hồn tác giả và hồn thu. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Sau khi nhìn mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân. Ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Ở trên, cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đến đầy cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Hoa nở trước mắt hẳn hoi mà cảm thấy là hoa năm ngoái. Điều gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khứ hay bóng dáng quá khứ hiện về trong thực tại? Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2 Từ Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chứ không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi Ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Nếu như trong bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hòa, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hòa hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy. Trước cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cắt bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh thu ở quê hương mình, từ màu trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không.. để dẫn đến cảm xúc đầy suy tư ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, ông gửi gắm tâm trạng xót xa, tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì lực bất tòng tâm. Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không dễ mấy ai sánh được. Xem thêm Đăng bài phân tích kiếm tiền Cách kiếm tiền từ giao dịch bitcoin Admin và Zero thích bài này. Last edited by a moderator 22 Tháng mười 2021 văn mẫu
nhân hứng cũng vừa toan cất bút